Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012

Lẽ ghét thương - trích Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu


LẼ GHÉT THƯƠNG
Nguyễn Đình Chiểu
Tr. 45 – 47 SGK 11 tập 1

1.Vị trí đoạn trích.

           Nằm ở phần đầu của truyện, từ câu 473 đến câu 504 trong tổng số 2082 câu, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và 4 chàng nho sinh khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông Quán, trước lúc vào phòng thi.

         Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực trên đường đến trường thi thì gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng đi thi. Tại cửa hàng của ông Quán đã diễn ra một cuộc thi tài thơ. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm thua, nên rất tức tối, nghi Vân Tiên, Tử Trực lấy cắp thơ cổ. Chúng bị ông Quán chê cười, Trịnh Hâm bực bội buông lời xấc xược, lập tức ông Quán đáp lời ngay. Lời ông cương trực, thẳng thắn, bộc lộ thái độ thương ghét phân minh.

2. Văn bản

Quán rằng: "Kinh sử(1) đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng(2) xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào(3),
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ(4) mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan(5),
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân(6),
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng(7),
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân(8),
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông(9).
Thương thầy Nhan Tử(10) dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát(11) tài lành,
Gặp cơn Hán mạt(12) đã đành phui pha(13).
Thương thầy Đồng tử(14) cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng(15) ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ(16) chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc(17) đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân(18).
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương".
3. Chú thích

(1) Kinh sử: Chỉ chung các loại kinh truyện và sách sử học thời xưa phải học để đi thi.
(2) Hằng: thường
(3) Tầm phào: vu vơ, hão huyền, không có ya nghĩa gì.
(4) Kiệt, Trụ: vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương – hai ông vua bạo ngược, vô đạo trong lịch sử Trung Quốc.
(5) U, Lệ:U Vương và Lệ Vương – hai ông vua khét tiếng tàn bạo, hoang dâm đời nhà Chu.
      Đa đoan: nhiều mối, lăm chuyện rắc rối.
(6) Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, nǎm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn.
(7) Thúc quý: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân bǎng: chia lìa.
(8) Đầu: đầu hàng.
(9)Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, người nước Lỗ, tên Khâu, tự Trọng Ni, ông tổ của Nho Giáo, nền tẳng tinh thần của xã hội phong kiến xưa.
(10) Tống, Vệ, Trần, Khuông: Tên các nước chư hầu và các miền đất thời Xuân thu mà KT đã tới để truyền đạo.
(11) Nhan Tử: Nhan hồi, tự Tử Uyên, người nước Lỗ, học trò đức hạnh nhất của Khổng Tử, rất hiếu học nhưng chết sớm.
(12) Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, sống ở thời Tam quốc, làm quân sư cho Lưu Bị, mong khôi phục cơ ngơi nhà Hán nhưng không gặp thời vận. Cho đến lúc ông mất (54 tuổi) chí nguyện vẫn chưa thành.
(13) Hán mạt: cuối đời nhà Hán, lúc xảy ra cục diện Tam quốc: N-T-N phân tranh.
(14) Phui pha: uổng phí.
(15) Đổng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán.
(16) Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn.
(17) Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu.
(18) Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học.
(19) Giáo dân: dạy dân.
4. Bố cục

-         6 câu đầu: lời đối đáp giữa ông Quán với Tử Trực, Vân Tiên.
- Từ câu 7 đến câu 16: Lẽ ghét
- Từ câu 17 đến câu 30: lẽ thương.

5. Ông quán

Là nhân vật phụ trong truyện, mang dáng dấp của một nhà nho đi ở ẩn. tính cách nóng nảy, bộc trực, ghét kẻ tiểu nhân ích kỉ, nhỏ nhen, giàu lòng yêu thương những con người bất hạnh.

Ông Quán cùng với nhân vật ông Ngư, ông Tiều trong tác phẩm là những người lao động nghèo khổ, nhưng họ thực chất là những nho sĩ ở ẩn giữa cuộc đời đen bạc. Tính tình bộc trực thẳng thắn, yêu ghét phân minh.

6. Phân tích
a. Lẽ ghét

-         Đối tượng:
+ Việc tầm phào ( vu vơ )
+ Đời Kiệt, Trụ: mê dâm, hoang dâm vô độ
+ Đời U, Lệ: đa đoan, lắm chuyện rắc rối.
+ Đời Ngũ bá, thúc quý: lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên.
Vua Trụ lấy rượu chứa thành ao, lấy thịt treo thành rừng rồi cho bọn con trai, con gái thả sức ăn chơi, dâm dật, xem đó là thú vui).
U Vương say đắm Bao Tự, để mua vui cho người đẹp có thể sai người xé mỗi ngày hàng trăm tấn lụa – vì Bao Tự thích nghe tiếng lụa xé.
→ Chính sự suy tàn, vua chúa say đắm tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của dân.
-         - Lí do:
+ Kiệt, Trụ mê dâm, “Để dân đến nổi sa hầm sẩy hang”
+ U, Lệ đa đoan, “Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần”
+ Ngũ bá phân vân, “Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn”
+ Thúc quý phân băng, “Sớm đầu tối đánh lằng nhằn rối dân” .

Phê phán các triều đại suy tàn, cũng có thể xuất phát từ những lập trường khác nhau, hoặc là để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, vua ra vua, tôi ra tôi, bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, hoặc vì trách nhiệm của một tôi trung,…với NĐC thì không hẳn như vậy. Ở đoạn thơ này, mỗi cặp câu lục bát là mỗi tiếng “dân” được nhắc đến, tất cả những lời kết tội đều xoay quanh một ý: ở các thời đại đó, chỉ có dân là phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều…

→ Chỉ có dân là phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều. Tác giả đã đứng về phía nhân dân mà phẩm bình lịch sử.
- Cường độ:
+ Điệp từ ghét : 10 câu thơ nói về ghét thì có đến 8 từ “ghét”. Đặc biệt 2 câu “Quán rằng…tận tâm” có đến 4 từ

+ tăng cấp để diễn tả các màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét. Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lòng người “ghét cay…tận tâm”
+ Cách dùng đại từ xưng hô.Khi nói tới 4 tên vua tàn ác trong lịch sử , nhà thơ không sử dụng đại từ xưng gọi mà chỉ nhắc tên một cách suồng sã: Kiệt, Trụ, U, Lệ.
→ ghét trở thành căm thù, lời nguyền đanh sắc, quyết liệt→ tính nhân dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.
Với nghệ thuật điệp từ + tăng cấp + cách gọi tên, cái ghét của ông Quán ăn tận trong sâu thẳm của lòng người, trở thành nỗi căm thù, lời nguyền đanh sắc, quyết liệt. “Ghét cay…tận tâm” → tính nhân dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.

b. Lẽ thương

Nếu như đoạn trên tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lòng thương dân, thì ở đoạn này tác giả cho nhân vật trực tiếp bộc lộ lòng thương yêu đối với những người có tài cao chí cả, muốn cứu đời giúp dân mà gặp phải những rủi ro bất hạnh, nên nguyện vọng của họ không thực hiện được.

- Đối tượng:

+ Thương Khổng Tử lận đận gian lao trong việc truyền đạo Nho.
+ Thương Nhan Tử chết sớm dở dang.
+ Thương Gia Cát Lượng có tài mưu lược lớn giúp Lưu Bị mà sự nghiệp không thành.
+ Thương Đổng Trọng Thư có tài đức hơn người mà bị dồn vào thế bí.
+ Thương Nguyên Lượng (Đào Tiềm) khí tiết thanh cao mà lui về ở ẩn.
+ Thương Hàn Dũ có tài văn chương chỉ vì dâng biểu can vua mà bị đi đày…

→ Họ là những người có tài, đức và có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân, nhưng đều không đạt sở nguyện.
Bấy nhiêu con người ấy ít nhiều đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu. Là một nhà nho, ông cũng từng nuôi chí hành đạo giúp đời, lập nên sự nghiệp công danh, nhưng cuộc đời dồn cho nhà thơ quá nhiều bất hạnh, thời buổi nhố nhăng, nên không thể đạt nguyện.Bởi thế, lẽ thương ở đây chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng nhà thơ Đồ Chiểu. Chuyện sách vở mà cũng là chuyện cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu đã vì cuộc đời, vì sự an bình của nhân dân mà thương, mà tiếc cho những người hiền tài không gặp thời vận để đến nỗi phải “đành phôi pha”.
- Cường độ:
Thương yêu tha thiết, đầy tính chất bác ái và nhân bản ( thể hiện qua việc dùng điệp từ “thương” 9 từ trong đoạn còn lại)

=> Niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng nhà thơ Đồ Chiểu.
=> Vậy, lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ tình cảm yêu thương nhân dân, mong muốn nhân dân được sống yên bình, hạnh phúc, những người tài đức có điều kiện thực hiện chí nguyện bình sinh.
7. Nghệ thuật

-         Sử dụng điệp từ “ ghét, thương ” :
Tăng sức mạnh của việc thể hiện cảm xúc.
Tình cảm mãnh liệt và sâu sắc của con người tác giả.
Thể hiện sự ngay thẳng, phân minh rạch ròi.
-      Đoạn thơ mang tính chất triết lí đạo đức, nhưng không hề khô khan, cứng nhắc mà dạt dào cảm xúc. Cảm xúc đó xuất phát từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thơ. Lời lẽ có khi mộc mạc đến thô sơ, đi thẳng vào trái tim người đọc, người nghe.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét